A La Hán là Thánh quả cao nhất trong quá trình tu tập giác ngộ Niết bàn của Phật pháp. Dưới thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, có hàng trăm hàng ngàn người đã đạt được cảnh giới này. Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, và rất lâu sau đó, văn hóa Phật Giáo được Thầy Huyền Trang truyền vào Trung Quốc và phát triển rộng rãi, và hình ảnh của 18 Vị La Hán bắt đầu xuất hiện vào những năm 891 bởi 1 vị thiền sư. Hôm nay mời các bạn cùng đi theo Cao Trang để tìm hiểu về 18 Vị La Hán này nhé.
Nguồn gốc về 18 vị La Hán/ Thập Bát La Hán
Mỗi vị La Hán đều sở hữu những phẩm chất của sự giác ngộ, đó là niềm tin mãnh liệt vào Phật Pháp, luôn nỗ lực tinh tấn thực hành lời Phật dạy, không chút buông lơi, dễ duôi, và kiên trì tới cùng trên con đường tu hành, đoạn diệt mọi phiền não, tham sân si được chuyển hóa thành sức mạnh của trí tuệ và tình yêu thương vô điều kiện.
Những hình tượng La hán đầu tiên do Thiền sư Quán Hưu vẽ vào năm 891 ở Thành Đô. Theo truyền thuyết, các vị La hán đã xuất hiện trong giấc mơ của ông để yêu cầu ông vẽ chân dung của họ.
Trong tranh, các La hán được mô tả là người nước ngoài với lông mày rậm, mắt lớn, má gồ, và mũi cao, đặt trong phong cảnh theo phong cách nghệ thuật Trung Quốc cổ đại. Họ được khắc họa như những vị sư với trang phục nhếch nhác, lập dị, và mang dáng vẻ của người lang thang hoặc ăn xin, thể hiện sự từ bỏ những ham muốn trần tục.
Những hình tượng các vị La hán do Quán Hưu thiền sư tạo nên đã trở thành hình mẫu cho các họa sư và nghệ nhân đời sau, dù mỗi thời kỳ đều có sự khác biệt đôi chút. Mời các bạn theo dõi những hình ảnh của 18 Vị La Hán qua các bức tượng đá mà nghệ nhân Cao Trang đã điêu khắc nên một cách rất nghệ thuật và đặc biệt.
18 Vị La Hán gồm những vị nào?
- La Hán Tọa Lộc Ngài tên là Tân-đầu-lô-phả-đọa (Pindolabharadvaja/坐鹿羅漢), xuất thân dòng Bà-la-môn, là một đại thần danh tiếng của vua Ưu Điền. Ngài thích xuất gia nên rời bỏ triều đình vào rừng núi nỗ lực tu tập, sau khi chứng Thánh quả cỡi hươu về triều khuyến hóa vua, nhân đó được tặng danh hiệu La-hán Cỡi Hươu. Ngài là vị là hán thứ 1 trong 18 vị La Hán.
2. La Hán Khánh Hỷ: Ngài tên là Ca-nặc-ca-phạt-tha (Kanakavatsa/喜慶羅漢), còn gọi là Yết-nặc-ca-phược-sa. Đức Phật thường khen Ngài là vị La-hán phân biệt thị phi rõ ràng nhất. Khi chưa xuất gia Ngài là người rất tuân thủ khuôn phép, giữ gìn từ lời nói đến hành động, một ý nghĩ xấu cũng không cho phát khởi. Sau khi xuất gia, Ngài càng nỗ lực tinh tấn tu tập, nhờ thiện căn sâu dày Ngài chứng quả A-la-hán rất mau. Ngài thường đi du hóa khắp nơi với gương mặt tươi vui và dùng biện tài thuyết pháp để chiêu phục chúng sanh. Ngài là vị La Hán thứ 2 trong 18 vị La Hán.
3. La Hán Cử Bát: Tên của Ngài là Ca-nặc-ca-bạt-ly-đọa-xà (Kanakabharadvaja/舉缽羅漢, ngụ ở Đông Thắng Thân Châu, vị giữ bát hóa duyên, khuyến giáo hành giả, hình tượng trong các chùa là vị La Hán trên tay cầm chiếc bát.
Ngài là vị Đại đệ tử được đức Phật giao phó giáo hóa vùng Đông Thắng Thần Châu. Quốc vương nước Tăng-già-la ở Nam Hải không tin Phật pháp, Tôn giả tìm cách hóa độ. Một sớm mai, khi đang cầm gương soi mặt, quốc vương giật mình kinh sợ vì trong gương không có mặt mình mà có hình dáng vị đại sĩ Bạch Y. Đây là do phép thần biến của Tôn giả. Theo lời khuyên của quần thần, nhà vua cho tạc tượng Quan Thế Âm Bồ Tát để thờ phụng và từ đó hết lòng tin Phật. Ngài là vị La Hán thứ 3 trong 18 vị La Hán.
4. La Hán Thác Tháp: Tôn giả Tô-tần-đà (Subinda/托塔羅漢) nâng bảo tháp Xá lợi Phật. Tên của Ngài là Tô-tần-đà (Subinda). Thường ngày, Ngài tu tập rất tinh nghiêm, giúp người nhiệt tình nhưng ít thích nói chuyện. Tôn giả ít khi đi theo đức Phật ra ngoài, Ngài chỉ ở yên nơi tịnh xá đọc sách hoặc quét sân. Có người phê bình cách nói chuyện của Ngài không hay, đức Phật biết được an ủi: Này Tô-tần-đà! Nói chuyện hay hoặc dở không liên quan gì đến vấn đề giác ngộ. Mọi người chỉ cần y theo lời ta dạy mà thực hành, dù không nói câu nào cũng thành tựu sự giải thoát.
Đúng thật là Tôn giả hiếm khi lãng phí thời gian vào việc tán gẫu, chỉ dành trọn thời gian tọa thiền nên chứng quả A-la-hán rất sớm. Hình tượng Ngài được tạo với bảo tháp thu nhỏ trên tay, tháp là nơi thờ xá-lợi Phật, giữ tháp bên mình là giữ mạng mạch Phật pháp, vì thế Ngài được gọi là La-hán Nâng Tháp. Ngài là vị La Hán thứ 4 trong 18 vị La Hán.
5. La Hán Tĩnh Tọa: Tên của Ngài là Nặc-cù-la (Nakula/靜坐羅漢). Trên vách hang thứ 76 của động Đôn Hoàng có vẽ hình tượng Ngài ngồi kiết già trên phiến đá. Theo truyền thuyết, Ngài thuộc gia cấp Sát-đế-lợi sức mạnh vô song, đời sống chỉ biết có chiến tranh chém giết. Khi theo Phật xuất gia, Ngài đạt quả A-la-hán trong tư thế tĩnh tọa. Ngài là vị La Hán thứ 5 trong 18 vị La Hán.
6.La Hán Quá Giang – Tên của Ngài là Bạt-đà-la (Badra/過江羅漢). Bạt-đà-la còn gọi là Hiền, vì mẹ Ngài hạ sanh Ngài dưới cây Bạt-đà, tức là cây Hiền. Theo truyền thuyết, Tôn giả rất thích tắm rửa, mỗi ngày tắm từ một đến mười lần, và như vậy rất mất thời gian đồng thời trễ nải công việc. Sau đó Đức Phật đã khai thị rằng việc tắm cho thân thể quan trọng nhưng tắm gội làm sạch tâm quan trọng hơn, từ đó Ngài đã siêng năng gột rửa tâm nên chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán. Ngài là vị La Hán thứ 6 trong 18 vị La Hán.
7. La Hán Kỵ Tượng: Tên của Ngài là Ca-lý-ca (Kalika/騎象羅漢/拂塵羅漢), trước khi xuất gia làm nghề quản tượng (huấn luyện voi). Khi Tôn giả chứng quả A-la-hán, đức Phật bảo Ngài nên ở tại quê hương mình (Tích Lan) để ủng hộ Phật pháp. Phật đến Tích Lan thuyết kinh Lăng GiàTôn giả cũng là một trong số đệ tử đi theo.
Đức Phật sắp rời đảo, vua Dạ-xoa cung thỉnh đức Phật để lại một kỷ niệm tại đảo để làm niềm tin cho hậu thế. Thế Tôn ấn dấu chân của mình trên một ngọn núi, nơi đó trở thánh Phật Túc Sơn, và bảo tôn giả Ca-lý-ca gìn giữ thánh tích này. Ngài là vị La Hán thứ 7 trong 18 vị La Hán.
8. La Hán Tiểu Sư: Tên của Ngài là Phạt-xà-la-phất-đa-la (Vajraputra/笑獅羅漢). Tương truyền khi còn ở thế tục, Ngài làm nghề thợ săn, thể lực rất tráng kiện, một tay có thể nâng một con voi, hoặc nắm một con sư tử ném xa hơn 10 mét. Mỗi khi muông thú chạm mặt Ngài, chúng đều hoảng sợ lánh xa. Sau khi xuất gia, Ngài nỗ lực tu tập, chứng quả La-hán. Lại có một con sư tử thường quấn quít bên Ngài, do đó Ngài có biệt hiệu là La-hán Đùa Sư Tử. Ngài là vị La Hán thứ 8 trong 18 vị La Hán.
9. La Hán Khai Tâm: Ngài tên là Thú-bác-ca (Jivaka/開心羅漢). vốn là một Bà-la-môn nổi danh, nghe nói thân Phật cao một trượng sáu, Thú-bác-ca không tin nên chặt một cây trúc dài đúng một trượng sáu để đích thân đo Phật. Kỳ lạ thay, dù đo bất cứ cách nào, thân Phật vẫn cao hơn một chút.
Thú-bác-ca bèn tìm một cây thang dài rồi leo lên cây thang đo lại nhưng kết quả vẫn không thay đổi. Do đến mươi mấy lần, không còn thấy thang nào dài hơn mà thân Phật vẫn cao hơn. Lúc này ông mới khâm phục và xin quy y làm đề tử. Ngài là vị La Hán thứ 9 trong 18 vị La Hán.
10. La Hán Thám Thủ: Ngài tên là Bán-thác-ca (Panthaka) là anh của Châu-lợi-bàn-đặc, sinh ra bên đường theo phong tục Ấn Độ. Là một thanh niên trí thức, Ngài xuất gia và nhanh chóng chứng quả A-la-hán. Ngài đã khuyên em mình hoàn tục vì thấy em quá khó khăn, nhưng sau đó vui mừng khi em chứng Thánh quả. Cả hai anh em được Đức Phật khen ngợi vì cùng xuất gia và chứng quả A-la-hán. Đức Phật khuyến khích họ lưu lại nhân gian để hoằng dương Phật pháp, và họ đã làm theo, thường tùy hỷ hóa độ chúng sanh. Ngài là vị La Hán thứ 10 trong 18 vị La Hán.
11. La Hán Trầm Tư – Ngài tên là La-hầu-la (Rāhula/沉思羅漢) là con của Thái tử Tất Đạt Đa. Sau khi theo Phật xuất gia, nhờ sự giáo dưỡng của Thế Tôn, Ngài bỏ dần tập khí vương giả và thói xấu trêu ghẹo người, nỗ lực tu tập để chứng Thánh quả. Ngài là vị La Hán thứ 11 trong 18 vị La Hán.
12. La Hán Khoái Nhĩ – Ngài tên là Na-già-tê-na (Nagasena/挖耳羅漢) hay còn gọi là Na Tiên. Nagasena theo tiếng phạn nghĩa là đội quân của rồng và tượng trưng sức mạnh thiên nhiên. Ngài Na Tiên sinh trưởng ở miền Bắc Ấn là bậc La-hán nổi tiếng về tài biện luận. Ngài là vị La Hán thứ 12 trong 18 vị La Hán.
13. La Hán Bố Đại: Tên của Ngài là Nhân-yết-đà hay Nhân-kiệt-đà (Angada/布袋羅漢). Theo truyền thuyết Ngài là người bắt rắn ở Ấn Độ, xứ này nhiều rắn độc hay cắn chết người. Ngài bắt chúng, bẻ hết những răng nanh độc rồi phóng thích lên núi. Hành động ấy phát xuất bởi lòng từ cao độ, nên Ngài được xem như biểu trưng của từ bi. Sau khi đắc đạo, Ngài thường mang một túi vải bên mình để đựng rắn, cũng trùng hợp như Hòa thượng Bố Đại ở Trung Hoa. Ngài là vị La Hán thứ 13 trong 18 vị La Hán.
14. La Hán Ba Tiêu: Tên của Ngài là Phạt-na-bà-tư (Vanavàsin/芭蕉羅漢). Theo truyền thuyết khi mẹ Ngài vào rừng viếng cảnh, mưa to dữ dội và bà hạ sanh Ngài trong lúc ấy. Sau khi xuất gia với Phật, Ngài thích tu tập trong núi rừng, thường đứng dưới các cây chuối nên còn được gọi là La-hán Ba Tiêu. Ngài là vị La Hán thứ 14 trong 18 vị La Hán. Ngài là vị La Hán thứ 14 trong 18 vị La Hán.
15. La Hán Trường Mi: Tên của Ngài là A-thị-đa (Ajita/長眉羅漢) thuộc dòng Bà-la-môn nước Xá-vệ. Theo truyền thuyết khi Ngài mới sanh ra đã có lông mày dài rủ xuống, điều báo hiệu kiếp trước Ngài là một nhà sư. Sau khi theo Phật xuất gia, Ngài phát triển thiền quán và chứng A-la-hán. Ngài cũng là một trong những thị giả Phật, khi chứng quả xong vẫn thường du hóa trong dân gian. Ngài là vị La Hán thứ 2 trong 15 vị La Hán.
16. La Hán Kháng Môn: Tên của Ngài là Chú-trà-bán-thác-ca, hay Châu-lợi-bàn-đặc (Cullapatka/看門羅漢). Kinh điển Phật giáo nhắc đến Ngài như một tấm gương cần cù nhẫn nại. Vì không thông minh như anh nên khi xuất gia Ngài không tiếp thu được Phật pháp, kể cả xếp chân ngồi thiền cũng không xong. Về sau được sự chỉ dạy lân mẫn của Thế Tôn, Ngài thực hành pháp môn quét rác với cây chổi trên tay. Nhờ sự kiên trì, dốc tâm thực hành lời dạy của Phật, quét sạch mọi cấu uế bên trong lẫn bên ngoài, Ngài đã chứng Thánh quả. Ngài là vị La Hán thứ 16 trong 18 vị La Hán.
Hiện nay ở Nhật Bản và Hàn Quốc vẫn duy trì 16 Vị La Hán, riêng Trung Quốc về sau đã thêm 2 vị La Hán là Hàng Long và La Hán Phục Hổ:
17. La Hán Hàng Long:Ngài tên là Nan-đề-mật-đa-la (Nandimitra/降龍羅漢), Trung hoa dịch Khánh Hữu, ra đời sau Phật diệt độ 800 năm, cư trú tại nước Sư Tử. Ngài là vị Đại La-hán thần thông quảng đại, đạo hạnh trang nghiêm. Tương truyền có một lần cả đảo Sư Tử bị Long Vương dâng nước nhận chìm, Tôn giả ra tay hàng phục rồng nọ và được tặng hiệu La-hán Hàng Long. Ngài là vị La Hán thứ 17 trong 18 vị La Hán.
18. Tượng đá Di Lặc Tôn Giả Tên của Ngài là Đạt-ma-đa-la (Dharmatrāta) sống ở núi Hạ Lan tỉnh Cam Túc và rất thích chiêm ngưỡng hình tượng 16 vị La-hán. Trong khi lễ bái, Ngài thấy các hình tượng La-hán cử động và mỉm cười, điều này khiến Ngài càng siêng năng tu hành và cuối cùng chứng quả A-la-hán.
Ngài thường du hóa, giảng pháp, và cứu giúp chúng sanh, đặc biệt là thu phục một con hổ dữ và đem về núi để tu. Bên cạnh hình tượng Ngài thường vẽ thêm con hổ, do đó Ngài được biết đến với danh hiệu La-hán Phục Hổ. Ngài là vị La Hán thứ 18 trong 18 vị La Hán.
Mời quý vị xem thêm 1 số hình ảnh tượng 18 Vị La Hán khác của Cao Trang điêu khắc nhé:
Thỉnh tượng Thập Bát La Hán( 18 Vị La Hán) bằng đá uy tín ở đâu?
Cao Trang là một cơ sở điêu khắc đá mỹ nghệ đã có hơn 20 năm kinh nghiệm về điêu khắc các tôn tượng Phật đá. Đến với Cao Trang quý vị chắc chắn sẽ yên tâm về chất lượng đá cũng như tài năng của người nghệ nhân điêu khắc đá.
Với sự tận tâm và luôn hướng đến bảo vệ những truyền thống Phật giáo, Cao Trang cam kết sẽ đem lại sự hài lòng cho quý vị khi thỉnh tượng.
- Tất cả các tượng Phật đá đủ mọi kích thước đều trải qua sự điêu khắc của nghệ nhân chuyên nghiệp.
- Tư vấn đầy đủ các thông tin về cách thỉnh, cách thờ, cách đặt và cách giữ bóng cho tượng
- Miễn phí vận chuyển và hỗ trợ lắp đặt tận nơi.
- Chi phí phù hợp với ngân sách của bạn.
- Cao Trang luôn chú trọng đến chất lượng đá nên quý vị hoàn toàn yên tâm
- Cao Trang cam kết bảo hành các tôn tượng đá từ 8-10 năm.
>>> Mời bạn xem thêm: