Kinh A Di Đà Và Nghi Thức Trì Tụng Tại Nhà

kinh a di da

Bài viết này Tượng Phật Đá Cao Trang sẽ chia sẻ toàn bộ nội dung của bộ Kinh A Di Đà Phật. Lưu ý đây là bài viết rất dài, nên chúng tôi mong bạn đọc hoan hỷ dành thời gian đọc đến cuối bài viết.

kinh a di da
Kinh A Di Đà Và Nghi Thức Trì Tụng Tại Nhà

Kinh A Di Đà là gì?

Kinh A Di Đà là một trong những bộ kinh nhật tụng phổ biến của tín đồ Phật giáo Đại Thừa. Bộ kinh ra đời trong giai đoạn phát triển thịnh vượng của Đại thừa Phật Giáo và là 1 trong 3 bài kinh quan trọng nhất của Tịnh Độ Tông. Nội dung của kinh miêu tả về cõi Tây Phương cực lạc, một vùng đất thanh tịnh thuộc về Phật A Di Đà.

Bộ kinh A Di Đà được xây dựng trên nền tảng đức tin của người tu hành với Phật pháp. Việc trì tụng kinh được xem là con đường đưa người tu tập vãng sanh tới thế giới Tịnh độ, thoát ly khỏi khổ đau, ra khỏi vòng luân hồi sinh tử, được hưởng niềm an lạc vĩnh viễn.

Kinh A Di Đà nguyên thủy được viết bằng tiếng Phạn. Sau đó bộ kinh được Pháp sư Cưu Ma La Thập – dịch giả Ấn Độ nổi danh thời đó – chuyển ngữ sang tiếng Hán vào thời Diều Tần (hay Dao Tần). Tại Việt Nam, bản dịch kinh A Di Đà thông dụng nhất là bản dịch của Tổng hội Phật giáo Pháp giới, Vạn Phật Thánh Thành, vốn cũng được dịch từ bản dịch của Cưu Ma La Thập.

Xem thêm: Nên thỉnh tượng phật A Di Đà bằng đá ở đâu?

tuong a di da e1680499069834
Phật A Di Đà

Video tụng kinh A Di Đà bởi hòa thượng Thích Trí Thoát

Sau đây mời bạn lắng nghe phần tụng kinh A Di Đà do hòa thượng Thích Trí Thoát thực hiện.

Nguồn gốc bộ kinh A Di Đà

Kinh A Di Đà là một phần quan trọng của Kinh Đại Vô Lượng Thọ. Bộ kinh đã được dịch từ phiên bản Phạn sang Hán bởi Pháp sư Cưu Ma La Thập, một dịch giả nổi tiếng trong lịch sử Tịnh Độ từ năm 147 đến năm 713 sau Công nguyên. (Kinh này được sử dụng trong nội dung bài viết bạn đang đọc).

Tập kinh Quán Vô Lượng Thọ giúp chúng ta hiểu rõ về nguồn gốc của giáo lý Tịnh Độ do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni truyền bá. Trong câu chuyện, Thái tử A Xà Thế nổi loạn chống lại vua cha và phong tỏa cung điện. Hoàng hậu bị giam cầm tại một nơi khác và mong muốn tìm một nơi tốt đẹp hơn, nơi không có những biến cố xấu xảy ra.

Đức Thế Tôn hiện hình trước mặt hoàng hậu và thể hiện sự hiện diện của tất cả các hình tượng Phật độ. Hoàng hậu đã lựa chọn quốc độ của Phật A Di Đà làm quốc độ tối hảo. Đức Phật dạy bà cách thụ triển niệm về quốc độ này, để cuối cùng được hướng sinh vào đó. Ngài sử dụng giáo pháp đặc biệt của mình cùng với giáo pháp của Phật A Di Đà.

Kinh Quán Vô Lượng Thọ cũng khẳng định rằng giáo lý A Di Đà có nguồn gốc chung với giáo lý Nguyên thủy, đều là những giáo lý được Phật Thích Ca Mâu Ni truyền dạy cho các đệ tử.

tuong phạt a di da 1 767x1024 e1680499822477

Ý nghĩa tụng kinh A Di Đà Phật

Kinh A Di Đà ca ngợi công đức và được tất cả các vị Phật hộ niệm. Bộ kinh này hàm chứa nhiều tầng ý nghĩa thâm trầm do đích thân Phật Bổn Sư Thích Ca thuyết giảng. Trong một bài giảng của mình, hòa thượng Thích Trí Quảng giải thích sự khác biệt giữa niệm Phật và kêu Phật.

“Niệm Phật không phải là kêu Phật. Đa số người lầm tưởng kêu tên Phật là niệm Phật. Niệm Phật hoàn toàn khác với kêu tên Phật. Suốt ngày chúng ta đọc Nam Mô A Di Đà Phật là kêu tên Phật để vãng sanh thì không thể nào vãng sanh được”, hòa thượng Thích Trí Quảng nói.

Theo hòa thượng Thích Trí Quảng, pháp niệm Phật A Di Đà cốt ở trong tâm, không cần thông qua phương tiện trung gian nào. Mục đích để đạt được trạng thái tâm thanh tịnh, không thể bị nhiễu loạn. Hòa thượng cho biết thêm cõi tịnh độ của Phật A Di Đà tượng trưng cho sự vô hạn và vô chung. Nó còn được gọi là vô lượng thọ, vô lượng quang hoặc pháp giới tạng thân.

Theo đó, danh từ “vô lượng” nếu xét theo không gian, gọi là “Vô lượng quang”; nếu xét theo thời gian, gọi là “Vô lượng thọ”. Đây là một dạng Pháp thân (Dharma-kàya). Nếu coi Phật như đến từ thế gian (Báo thân – Sambhoga-kàya), và nếu coi Ngài như một Bồ Tát đang tiến tới trạng thái Phật, thì Ngài sẽ là một vị Phật sẽ đến, như Bồ Tát Cần Khổ (Đức Phật Thích Ca Mâu Ni).

Nói cách khác, khi một vị Phật được miêu tả dựa trên giác ngộ viên mãn, ta có lý tưởng về Phật, đó là Vô lượng quang – biểu tượng của trí tuệ giải thoát (Phật trí). Vô lượng thọ – biểu tượng của đại định (tâm giải thoát), vượt xa sự phân biệt tưởng tượng. Ý nghĩa của Vô lượng quang và Vô lượng thọ, cũng như giác ngộ của trí tuệ và từ bi vô tận, đều là những giải thích đơn giản về Vô lượng.

Có thể bạn quan tâm: Mua tượng Phật A Di Đà bằng đá uy tín chất lượng

Kinh A Di Đà ca ngợi công đức và được tất cả các vị Phật hộ niệm.
Kinh A Di Đà ca ngợi công đức và được tất cả các vị Phật hộ niệm.

Nghi thức tụng kinh A Di Đà

Quá trình tụng kinh Phật A Di Đà diễn ra như sau:

Chúng con nguyện cầu đức Phật A Di Đà, thị từ chấn tích quang lâm, phóng ngọc hào quang, tiếp dẫn chư hương linh, vong linh, cửu huyền thất tổ, thập nhị loại cô hồn, ngạ quỷ hà xa, hữu vị vô danh, hữu danh vô vị, nam nữ thương vong lai đáo Phật tiền, thính pháp văn kinh, tóc thoát mê đồ siêu sanh Tịnh độ.

Tịnh Pháp giới chơn ngôn

Án lam. (7 lần)

Tịnh khẩu nghiệp chơn ngôn:

Tu rị tu rị, ma ha tu rị tu tu rị, ta bà ha. (3 lần)

Tịnh tam nghiệp chơn ngôn:

Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)

Án thổ địa chơn ngôn:

Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, án độ rô độ rô, địa vỷ ta bà ha. (3 lần)

Phổ cúng dường chơn ngôn:

Án nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng. (3 lần)

Nguyện hương:

 Nguyện đem lòng thành kính,

Gởi theo đám mây hương.

Phưởng phất khắp mười phương.

Cúng dường ngôi Tam Bảo,

Thề trọn đời giữ đạo,

Theo tự tánh làm lành,

Cùng pháp giới chúng sinh,

Cầu Phật từ gia hộ,

Tâm Bồ Đề kiên cố,

Xa bể khổ nguồn mê,

Chóng quay về bờ Giác.

 Tán thán Phật

Đấng Pháp Vương vô thượng

Ba cõi chẳng ai bằng.

Thầy dạy khắp trời người,

Cha lành chung bốn loài.

Quy y tròn một niệm,

Dứt sạch nghiệp ba kỳ,

Xưng dương cùng tán thán,

Ức kiếp không cùng tận.

Quán tưởng

 Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng.

Đạo cảm thông không thể bàn,

Lưới đế châu ví đạo tràng,

Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời

Trước bảo tọa thân con ảnh hiện.

Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.

Đảnh lễ Tam Bảo

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá hiện, vị lai Thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam Bảo. (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo chủ, Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp chư tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 lạy)

Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật, đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát. (1 lạy)

Tán lư hương

Lư hương xạ nhiệt,

Pháp giới mông huân.

Chư Phật hải hội tất diêu văn,

Tùy xứ kiết tường vân.

Thành ý phương ân,

Chư Phật hiện toàn thân.

Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát (3 lần)

Chú đại bi

Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần)

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni. Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, Bồ-đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa. Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.

Nam-mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê dị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, dị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ bồ-đề dạ, bồ-đà dạ, bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cần trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha.

Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha. Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.

Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)

Khai kinh kệ

Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp.

Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ.

Ngã kim kiến văn đắc thọ trì.

Nguyện giải Như Lai chơn thiệt nghĩa.

Văn phát nguyện

Cúi lạy đấng Tam Giới Tôn

Quy mạng cùng mười phương Phật

Con nay phát nguyện rộng

Thọ trì Kinh Di Ðà

Trên đền bốn ơn nặng,

Dưới cứu khổ ba đường.

Nguyện cho người thấy nghe

Ðều phát lòng bồ-đề,

Nếu một báo thân này

Sanh qua cõi Cực lạc

 Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)

Kinh A Di Đà

Nam mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát (3 lần).

Ta nghe như vầy: Một thuở nọ Đức Phật ở nơi vườn Kỳ Thọ, cấp Cô Độc nước Xá-Vệ, cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ kheo câu hội: đều là bậc A La Hán mọi người đều quen biết, như là: Trưởng lão Xá-Lợi-Phất, Đại Mục-Kiền-Liên, Đại Ca-Diếp, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên, Ma-Ha Câu-Hy-La, Ly-Bà-Đa, Châu-Lợi-Bàn-Đà-Già, Nan-Đà, A-Nan-Đà, La-Hầu-La, Kiều-Phạm-Ba-Đề, Tân Đầu-Lư-Phả-La-Đọa, Ca-Lưu-Đà-Di, Ma-Ha Kiếp Tân Na, Bạc-Câu-La, A-Nâu-Lầu-Đà, những vị đại đệ tử như thế. Và hàng Đại Bồ Tát, Văn-Thù-Sư-Lợi: Pháp-Vương-Tử, A-Dật-Đa Bồ Tát, Càn-Đà-Ha-Đề Bồ Tát, Thường-Tinh-Tấn Bồ tát… cùng với các vị Đại Bồ tát như thế và với vô lượng chư Thiên như ông Thích-Đề-Hoàn-Nhơn…. đại chúng cùng đến dự hội.

Bấy giờ đức Phật bảo ngài Trưởng lão Xá-Lợi-Phất rằng: “Từ đây qua phương Tây quá mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc, trong thế giới đó có đức Phật hiệu là A Di Đà hiện nay đương nói pháp.

Xá Lợi Phất! Cõi đó vì sao tên là Cực lạc? Vì chúng sanh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là Cực Lạc.

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó tên là Cực Lạc.

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có ao bằng bảy chất báu, trong ao đầy dẫy nước đủ tám công đức, đáy ao thuần dùng cát vàng trải làm đất. Vàng bạc, lưu ly, pha lê hiệp thành những thềm, đường ở bốn bên ao; trên thềm đường có lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não.

Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe: hoa sắc xanh thời ánh sáng xanh, sắc vàng thời ánh sáng vàng, sắc đỏ thời ánh sáng đỏ, sắc trắng thời ánh sánh trắng, mầu nhiệm thơm tho trong sạch.

Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi nước của đức Phật đó, thường trổi nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thời rưới hoa trời mạn đà la. Chúng sanh trong cõi đó thường vào lúc sáng sớm, đều lấy đãy hoa đựng những hoa tốt đem cúng dường mười muôn ức đức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về bổn quốc ăn cơm xong đi kinh hành.

Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy. Lại nữa, Xá-Lợi-Phất! Cõi đó thường có những giống chim mầu sắc xinh đẹp lạ thường, nào chim Bạch hạc, Khổng-tước, Anh-võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cọng-mạng; những giống chim đó ngày đêm sáu thời kêu tiếng hòa nhã.

Tiếng chim đó diễn nói những pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần.. Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng!

Xá-Lợi-Phất! Ông chớ cho rằng những giống chim đó thiệt là do tội báo sanh ra. Vì sao? Vì cõi của đức Phật đó không có ba đường dữ.

Xá-Lợi-Phất! Cõi của đức Phật đó tên đường dữ còn không có huống gì lại có sự thật. Những giống chim đó là do đức Phật A Di Đà muốn làm cho tiếng pháp được tuyên lưu mà biến hóa làm ra đấy thôi.

Xá-Lợi-Phất! Trong cõi nước của đức Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và động mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, thí như trăm nghìn thứ nhạc đồng một lúc hòa chung. Người nào nghe tiếng đó tự nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

Xá-Lợi-Phất! Nơi ý ông nghĩ sao? Đức Phật đó vì sao hiệu là A Di Đà?

Xá-Lợi-Phất! Đức Phật đó, hào quang sáng chói vô lượng, soi suốt các cõi nước trong mười phương không bị chướng ngại vì thế nên hiệu là A Di Đà.

Xá-Lợi-Phất! Đức Phật đó và nhân dân của Ngài sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, nên hiệu là A Di Đà.

Xá-Lợi-Phất! Đức Phật A Di Đà thành Phật nhẫn nại đến nay, đã được mười kiếp.

Xá-Lợi-Phất! Lại đức Phật đó có vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử đều là bực A La Hán, chẳng phải tính đếm mà có thể biết được, hàng Bồ tát chúng cũng đông như thế.

Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

Xá-Lợi-Phất! Lại trong cõi cực lạc, những chúng sanh vãng sanh vào đó đều là bực bất thối chuyển.

Trong đó có rất nhiều vị bực nhất sanh bổ xứ, số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà biết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên a-tăng-kỳ để nói thôi!

Xá-Lợi-Phất! Chúng sanh nào nghe những điều trên đây, nên phải phát nguyện cầu sanh về nước đó. Vì sao? Vì đặng cùng với các bậc Thượng thiện nhơn như thế câu hội một chỗ.

Xá-Lợi-Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về cõi đó.

Xá-Lợi-Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bẩy ngày, một lòng không tạp loạn. Thời người đó đến lúc lâm chung đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh Chúng hiện thân ở trước người đó. Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của đức Phật A Di Đà.

Xá-Lợi-Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế.

Nếu có chúng sinh nào, nghe những lời trên đó, nên phải phát nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc.

Xá-Lợi-Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Đà, phương Đông cũng có đức A-Súc-Bệ-Phật, Tu-Di-Tướng Phật, Đại-Tu-Di Phật, Tu-Di-Quang Phật, Diệu-Âm Phật; Hằng hà sa số những đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam thiên Đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Nam, có đức Nhật- Nguyệt-Đăng Phật, Danh-Văn-Quang Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật, Tu Di-Đăng Phật, Vô-Lượng-Tinh-Tấn Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Tây, có đức Vô Lượng-Thọ Phật, Vô-Lượng-Tướng Phật, Vô-Lượng-Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại-Minh Phật, Bửu-Tướng Phật, Tịnh-Quang Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Bắc, có đức Diệm-Kiên-Phật, Tối-Thắng-Âm Phật, Nan-Trở Phật, Nhựt-Sanh Phật, Võng-Minh Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương dưới, có đức Sư-Tử Phật, Danh-Văn Phật, Danh-Quang Phật, Đạt-Mạ Phật, Pháp-Tràng Phật, Trì-Pháp Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương trên, có đức Phạm-Âm Phật, Tú-Vương Phật, Hương-Thượng Phật, Hương-Quang Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật, Tạp-Sắc Bửu-Hoa-Nghiêm-Thân Phật, Ta La-Thọ-Vương Phật, Bửu-Hoa Đức Phật, Kiến-Nhất-Thiết-Nghĩa Phật, Như-Tu-Di-Sơn Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá-Lợi-Phất! Nơi ý của ông nghĩ thế nào, vì sao tên là Kinh: Nhứt-Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm?

Xá-Lợi-Phất! Vì nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này mà thọ trì đó, và nghe danh hiệu của đức Phật, thời những thiện nam tử cùng thiện nữ nhân ấy đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Xá-Lợi-Phất! Cho nên các ông đều phải tin nhận lời của Ta và của các đức Phật nói.

Xá-Lợi-Phất! Nếu có người đã phát nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi nước của đức Phật A Di Đà, thời những người ấy đều đặng không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; nơi cõi nước kia, hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiện nay sanh về, hoặc sẽ sanh về.

Xá-Lợi-Phất! Cho nên các thiện nam tử thiện nữ nhân nếu người nào có lòng tin thời phải nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.

Xá-Lợi-Phất! Như ta hôm nay ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của các đức Phật, các đức Phật đó cũng ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của Ta mà nói lời nầy: “Đức Thích Ca Mâu Ni Phật hay làm được việc rất khó khăn hi hữu, có thể ở trong cõi Ta Bà đời ác năm món trược: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược trung, mà Ngài chứng được ngôi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài vì các chúng sanh nói kinh pháp mà tất cả thế gian khó tin này”. Xá-Lợi-Phất! Phải biết rằng Ta ở trong đời ác ngũ trược thật hành việc khó này: đặng thành bậc Vô Thượng Chánh Giác và vì tất cả thế gian nói kinh pháp khó tin này, đó là rất khó! Đức Phật nói kinh này rồi, ngài Xá-Lợi-Phất cùng các vị Tỳ kheo, tất cả trong đời: Trời, Người, A-Tu-La,… nghe lời của đức Phật dạy, đều vui mừng tin nhận đảnh lễ mà lui ra.

Tây Phương Giáo Chủ

Tịnh Độ Năng Nhơn

Tứ Thập Bát Nguyện Độ Chúng Sanh

Phát Nguyện Thệ Hoằng Thâm

Thượng Phẩm Thượng Sanh

Đồng Phó Bảo Liên Thành

  1. Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Vô Lượng Quang Như Lai
  2. Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Vô Biên Quang Như Lai
  3. Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Vô Ngại Quang Như Lai
  4. Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Vô Đối Quang Như Lai
  5. Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Diệm Vương Quang Như Lai
  6. Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Thanh Tịnh Quang Như Lai
  7. Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Hoan Hỷ Quang Như Lai
  8. Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Trí Tuệ Quang Như Lai
  9. Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Nan Tư Quang Như Lai
  10. Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Bất Đoạn Quang Như Lai
  11. Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Vô Xưng Quang Như Lai
  12. Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Siêu Nhật Nguyệt Quang Như Lai

PHÁT NGUYỆN SÁM HỐI

Đệ tử chúng con từ vô thỉ,

Gây bao tội ác bởi lầm mê,

Đắm trong sanh tử đã bao lần,

Nay đến trước đài vô thượng giác;

Biển trần khổ lâu đời luân lạc,

Với sinh linh vô số điêu tàn,

Sống u hoài trong kiếp lầm than,

Con lạc lõng không nhìn phương hướng,

Đoàn con dại, từ lâu vất vưởng,

Hôm nay trông thấy đạo huy hoàng,

Xin hướng về núp bóng từ quang,

Lạy Phật Tổ soi đường dẫn bước.

Bao tội khổ trong đường ác trược,

Vì tham, sân, si, mạn gây nên,

Con hôm nay giữ trọn lời nguyền,

Xin sám hối để lòng thanh thoát;

Trí huệ quang minh như nhựt nguyệt,

Từ bi vô lượng cứu quần sinh,

Ôi! Từ lâu ba chốn ngục hình,

Giam giữ mãi con nguyền ra khỏi,

Theo gót Ngài vượt qua khổ ải,

Nương thuyền từ vượt bể ái hà,

Nhớ lời Ngài, “Bờ giác không xa

Hành thập thiện cho đời tươi sáng,

Bỏ việc ác, để đời quang đãng,

Đem phúc lành gieo rắc phàm nhân”.

Lời ngọc vàng ghi mãi bên lòng,

Con nguyện được sống đời rộng rãi,

Con niệm Phật để lòng nhớ mãi,

Hình bóng người cứu khổ chúng sanh,

Để theo Ngài trên bước đường lành,

Chúng con khổ, nguyền xin cứu khổ;

Chúng con khổ, nguyền xin tự độ,

Ngoài tham lam, sân hận ngập trời,

Phá si mê, trí huệ tuyệt vời,

Con nhớ đức Di Đà Lạc quốc,

Phật A Di Đà thân kim sắc,

Tướng tốt quang minh tự trang nghiêm

Năm Tu Di uyển chuyển bạch hào,

Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc,

Trong hào quang hóa vô số Phật,

Vô số Bồ tát hiện ở trong,

Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,

Chín phẩm sen vàng lên giải thoát,

Quy mạng lễ A Di Đà Phật,

Ở phương Tây thế giới an lành,

Con nay xin phát nguyện vãng sanh,

Cúi xin đức Từ bi tiếp độ.

Nam-mô Tây-phương Cực-Lạc thế-giới, đại-từ, đại-bi A-Di-Đà Phật.

Nam-mô A-Di-Đà Phật. (108 lần)

Nam-mô Quán-Thế-Âm Bồ-Tát. (3 lần)

Nam-mô Đại-Thế-Chí Bồ-Tát. (3 lần)

Nam-mô Địa-Tạng-Vương Bồ-Tát. (3 lần)

Nam-mô Thanh-Tịnh Đại-Hải-Chúng Bồ-Tát. (3 lần)

MA-HA BÁT-NHÃ BA-LA MẬT-ÐA TÂM-KINH

Quán-tự-tại Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã Ba-la mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Xá-Lợi-Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.

Xá-Lợi-Tử ! Thị chư Pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão-tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.

Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, tâm vô quái-ngại; vô quái-ngại cố, vô hữu khủng-bố, viễn ly điên-đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam-thế chư Phật, y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.

Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại-thần chú, thị đại minh chú, thị vô-thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.

Cố thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết: Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha. (3 lần)

VÃNG SANH TỊNH ĐỘ THẦN CHÚ

Nam-mô a di đà bà dạ, Đa tha dà đa dạ, Đa địa dạ tha.

A di rị đô bà tỳ,

A di rị đa tất đam bà tỳ,

A di rị đa tì ca lan đế,

A di rị đa, tì ca lan đa,

Dà di nị dà dà na,

Chỉ đa ca lệ ta bà ha.

HỒI HƯỚNG

Phúng kinh công-đức thù thắng hạnh,

Vô-biên thắng phước giai hồi hướng,

Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh

Tốc vãng Vô lượng Quang Phật sát.

Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não,

Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu,

Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ,

Thế thế thường hành Bồ tát đạo.

Nguyện sanh Tây-phương tịnh độ trung,

Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu,

Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,

Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ.

Nguyện dĩ thử công đức

Phổ cập ư nhứt thiết

Ngã đẳng dữ chúng sanh

Giai cộng thành Phật đạo.

***

PHỤC NGUYỆN

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật Liên Tòa Chứng Minh.

Phục Nguyện Thượng Chúc Phật Nhật Tăng Huy Pháp Luân Thường Chuyển, Phong Điều Vũ Thuận, Quốc Thới Dân An, Thế Giới Hòa Bình Chúng Sanh An Lạc.

Chúng Con Nguyện Đem Công Đức Này Hồi Hướng Trang Nghiêm Tây Phương Phật Tịnh Độ, Trên Đền Bốn Ơn Nặng, Dưới Cứu Khổ Ba Đường, Xin Hồi Hướng Oan Gia Trái Chủ Trong Nhiều Đời Nhiều Kiếp, Cũng Như Hiện Tại, Hữu Hình Và Vô Hình, Nếu Có Ai Thấy Nghe Điều Phát Tâm Bồ Đề, Hết Một Báo Thân Này Sanh Qua Cõi Cực Lạc.

Chúng Con Nguyện Cầu Đức Phật A Di Đà Thuỳ Từ Chấn Tích Quang Lâm Phóng Ngọc Hào Quang Gia Hộ Cho Tất Cả Chúng Con Biết Trước Giờ Lâm Chung, Thân Không Tật Bệnh Tâm Không Hôn Mê, Nhất Tâm Niệm Phật. Phật Và Thánh Chúng Tay Cầm Đài Vàng, Tiếp Dẫn Chúng Con Vãng Sanh Về Tây Phương Cực Lạc.

Chúng Con Nguyện Cầu Đức Quán Thế Âm Bồ Tát Thuỳ Từ Chấn Tích Quang Lâm, Gia Hộ Cho Chúng Con Cùng Tất Cả Chúng Sanh, Thân Tâm Thường An Lạc, Tật Bệnh Tiêu Trừ, Căn Lành Tăng Trưởng, Phước Huệ Trang Nghiêm. Xuân Đa Các Khánh, Hạ Bảo Bình An, Thu Tống Tam Tai, Đông Nghinh Bách Phúc, Một Hậu Đắc Di Đà Thọ Ký.

Chúng Con Nguyện Cầu Đức Phật A Di Đà, Thị Từ Chấn Tích Quang Lâm, Phóng Ngọc Hào Quang, Tiếp Dẫn Chư Hương Linh, Vong Linh, Cửu Huyền Thất Tổ, Thập Nhị Loại Cô Hồn, Ngạ Quỷ Hà Xa, Hữu Vị Vô Danh, Hữu Danh Vô Vị, Nam Nữ Thương Vong Lai Đáo Phật Tiền, Thính Pháp Văn Kinh, Tóc Thoát Mê Đồ Siêu Sanh Tịnh Độ.

Phổ Nguyện Âm Siêu Dương Thới, Pháp Giới Chúng Sanh, Tình Dữ Vô Tình, Đồng Sanh Cực lạc, Đồng Kiến Di Đà, Đồng ngộ Vô Sanh, Đồng Thành Phật Đạo.

TAM TỰ QUY Y

Tự quy-y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm. (1 lạy)

Tự quy-y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí-tuệ như hải. (1 lạy)

Tự quy-y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại-chúng, nhứt thiết vô ngại. (1 lạy)

>>> Xem thêm: Mua tượng Phật A Di Đà bằng đá

Lắng nghe hòa thượng Tuyên Hóa giảng kinh A Di Đà

Lắng nghe hòa thượng Tuyên Hóa giảng giải bộ kinh Phật thuyết A Di Đà như sau:

Như vậy, Tượng Phật Đá Cao Trang vừa chia sẻ đến bạn toàn bộ nội dung kinh A Di Đà đi kèm hướng dẫn trì tụng. Mong rằng nội dung này sẽ hữu ích với bạn đọc. Cảm ơn bạn đã dành thời gian đọc bài viết.

THÔNG TIN LIÊN HỆ:

TƯỢNG PHẬT ĐÁ CAO TRANG

Address: 155 Văn Tân – P. Hòa Hải – Q Ngũ Hành Sơn
Phone: 0983 969 199 – 0989.006.833
Email: admin@tuongphatda.vn
Website: www.tuongphatda.vn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *